Cá mè thịt chắc, vị ngọt, béo nhưng không ngấy, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ não tủy, nhuận phế, ích tỳ vị…
hịt cá có nhiều protid; mỡ cá có nhiều acid béo không no; mật cá chứa sterol. Trong Đông y, cá mè còn gọi là liên ngư, bạch cước liên, phường ngư. Bộ phận dùng làm thuốc là thịt, mỡ và mật cá.
Dùng cho người suy nhược, sốt, chán ăn: cá mè tươi 300g, khởi tử 30g. Cá mè làm sạch, bỏ đầu và xương, thái lát mỏng; nấu kỹ với khởi tử. Trước khi ăn có thể thêm giá đỗ xanh, gừng, rau mùi, rau cần, hành, muối, hồ tiêu; đun chín, ăn trong ngày.
Dùng cho bệnh nhân phù nề, tiểu tiện ít: cá mè 1 con, đậu đỏ hạt 30g. Cá mè làm sạch, cho vào nồi hầm nhừ với đậu đỏ, thêm gia vị thích hợp. Ăn một đợt trong 5 – 7 ngày.
Dùng cho các trường hợp đau đầu hoa mắt chóng mặt (huyễn vững), mỏi tay chân: đầu cá mè 1 chiếc, thiên ma 15g. Cho đầu cá, thiên ma, thêm muối gia vị và nước với số lượng thích hợp, hầm nhừ. Ăn một đợt 5 – 7 ngày.
Kiêng kỵ:
Các trường hợp nội nhiệt táo bón, lở ngứa, mụn nhọt không nên ăn. Không nên ăn gỏi cá mè hoặc ăn cá chưa nấu chín do cá thường mang ấu trùng sán lá gan.